Tự ý bán đất là tài sản chung khi chưa được vợ đồng ý, xử lý thế nào?

Hai vợ chồng tôi có thửa đất mua trong thời kỳ hôn nhân, nhưng lúc mua chỉ đứng tên chồng tôi. Sau này tôi phát hiện chồng tôi bán thửa đất là tài sản chung đó không có sự đồng ý của tôi. Vậy tôi phải làm thế nào?

Sau khi kết hôn, hai vợ chồng tôi có dành dụm mua được một thửa đất. Do lúc mua bán tôi bị mất giấy chứng minh nhân dân nên đất chỉ đứng tên chồng tôi.

Sau này tôi phát hiện chồng tôi lén lút bán thửa đất đó không có sự đồng ý của tôi. Luật sư cho hỏi tôi cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình? Nếu tôi đưa ra cơ quan chức năng xử lý thì chồng tôi có bị xử lý gì không?

Bạn đọc Vương Thị K (TP Huế) gửi câu hỏi để được tư vấn.

Luật sư Võ Công Hạnh (Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế) tư vấn về việc tự ý bán đất là tài sản chung của vợ chồng như sau:

Khi vợ chồng đăng ký kết hôn, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân hoặc là tài sản được tặng cho chung hai vợ chồng thì sẽ là tài sản chung vợ chồng, mọi quyết định liên quan đến tài sản chung đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Luật sư Võ Công Hạnh

Luật sư Võ Công Hạnh

Vì nguyên tắc khi giải quyết tài sản chung vợ chồng được nêu tại khoản 1 điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”.

Vì đây là tài sản chung của vợ chồng nên quyền định đoạt sẽ do cả hai người cùng thỏa thuận (khoản 1 điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình). Nếu không có thỏa thuận thì tài sản chung sẽ phải thực hiện theo nguyên tắc là cả hai vợ chồng cùng quyết định và định đoạt.

Nên khi bán đất phải có mặt cả hai vợ chồng cùng ký vào hợp đồng mua bán, trừ trường hợp một trong hai bên không thể trực tiếp ký thì có thể ủy quyền cho người còn lại hoặc người khác.

Tuy nhiên, một trong hai bên không thể tự ý bán đất mà không có sự đồng ý của người còn lại. Trong trường hợp khi sổ đỏ chỉ đứng tên một trong hai vợ chồng nhưng khi được xác định là tài sản chung thì đều phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

Do đó, theo quy định tại điều 18 nghị định 91 năm 2019 quy định về mức xử phạt vi phạm hành chính khi vi phạm việc chuyển quyền sử dụng đất khi không đủ điều kiện theo khoản 1 điều 188 Luật Đất đai nêu rõ những điều kiện để được chuyển quyền sử dụng đất là có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án và vẫn trong thời hạn sử dụng đất.

Do đó, nếu chị không đồng ý bán đất mà chồng tự ý bán được thì chị có thể khởi kiện ra tòa, để tòa xem xét hủy giao dịch mua bán khi chưa đủ điều kiện.

Đồng thời, trong các văn bản của pháp luật không có quy định nào về việc xử phạt chồng khi chồng tự ý bán đất là tài sản chung của vợ chồng mà không được sự đồng ý của vợ.