Lập hàng nghìn công ty “ma”, tạo ra các khoản vay khống, bà Trương Mỹ Lan đã rút của Ngân hàng SCB gần 200 nghìn tỷ đồng.
Thâu tóm toàn bộ Ngân hàng SCB
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (Ngân hàng SCB) được thành lập cuối tháng 11/2011, trên cơ sở hợp nhất 3 ngân hàng gồm: Ngân hàng TMCP Sài Gòn, Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa và Ngân hàng TMCP Đệ Nhất.
Tập đoàn Vạn Thịnh Phát có hơn 1.000 doanh nghiệp gồm các công ty con, công ty thành viên trong và ngoài nước. Để có nguồn vốn lớn phục vụ hoạt động của hệ thống công ty cũng như việc liên tục đầu tư, mua các dự án bất động sản, bà Trương Mỹ Lan đã tìm cách thâu tóm, chi phối, điều hành toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng SCB, trong đó có hoạt động cho vay.
Từ trước thời điểm hợp nhất các ngân hàng trên, bà Lan đã sở hữu phần lớn cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn, Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa và Ngân hàng TMCP Đệ Nhất.
Sau khi hợp nhất, bà Lan nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu hơn 85,6% cổ phần của Ngân hàng SCB, đồng thời tiếp tục mua và để cá nhân khác đứng tên cổ phần Ngân hàng SCB để tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần tại ngân hàng này lên hơn 91,5%.
Để nắm quyền chi phối, điều hành toàn bộ hoạt động của Ngân hàng SCB, bà Lan đã tuyển chọn, đưa người thân tín, có trình độ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nghe theo chỉ đạo của Lan vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt như HĐQT, Ban Tổng giám đốc, Giám đốc các chi nhánh lớn, Trưởng Ban kiểm soát và trả mức lương cao từ 200 – 500 triệu đồng/tháng, tặng, thưởng tiền, cổ phần SCB.
Bằng thủ đoạn trên, bà Lan đã sử dụng Ngân hàng SCB như một công cụ tài chính, huy động tiền gửi và vốn từ các nguồn khác, sau đó chỉ đạo rút tiền bằng cách tạo lập các khoản vay khống, phục vụ cho mục đích cá nhân.
Chiêu trò rút tiền ngân hàng
Để rút được tiền từ Ngân hàng SCB, bà Lan đã điều hành, chỉ đạo các cá nhân thân tín tổ chức thành lập nhiều bộ phận, đơn vị, công ty; thuê và sử dụng hàng nghìn cá nhân, câu kết chặt chẽ với nhau, thông đồng với các công ty thẩm định giá, triển khai rút tiền từ SCB.
Theo kết quả điều tra, có 875 khách hàng gồm 440 cá nhân, 435 pháp nhân đứng tên 1.284 khoản vay, được bà Trương Mỹ Lan chỉ đạo thuộc cấp thuê hoặc nhờ người đứng tên.
Ngoài việc tạo lập các công ty “ma” đứng tên hồ sơ vay vốn, bà Lan còn câu kết và chỉ đạo các đối tượng là chủ sở hữu, đại diện theo pháp luật hoặc được giao quản lý các công ty thực tế có hoạt động kinh doanh như Công ty Lavifood, Công ty CP Đầu tư Times Square, Công ty CP Dầu khí Đông Phương, Công ty Tường Việt để các công ty này đứng tên vay vốn hoặc tạo lập thêm nhiều công ty “ma”, tạo lập hồ sơ, phương án vay vốn khống, rút tiền của ngân hàng.
Mỗi khi cần rút tiền của Ngân hàng SCB, bà Lan chỉ đạo Trương Khánh Hoàng (quyền Tổng giám đốc Ngân hàng SCB), Trần Thị Mỹ Dung (nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng SCB) phối hợp, cấu kết với Nguyễn Phương Anh (nguyên Phó Tổng giám đốc Công ty Sài Gòn Peninsula) và một số lãnh đạo của SCB và các công ty con của Vạn Thịnh Phát, tạo lập hồ sơ, phương án vay vốn khống để hợp thức; đưa các cá nhân được thuê ra đứng tên khoản vay, đứng tên tài sản, đại diện công ty “ma” đến ký vào hồ sơ vay vốn khống, hồ sơ thế chấp, hầu hết là ký vào các tờ giấy trắng đã được đánh dấu sẵn vị trí cần ký.
Các đại diện pháp nhân và cá nhân đứng tên khoản vay đều không được thụ hưởng và sử dụng tiền, không biết mình vay và nợ SCB số tiền đặc biệt lớn.
Hầu hết các khoản vay của bà Lan và Tập đoàn Vạn Thịnh Phát được giải ngân trước và thực hiện hợp thức sau. Trên hồ sơ các khoản vay thể hiện thời điểm giải ngân cùng thời điểm ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, nhưng thực tế việc rút tiền tại Ngân hàng SCB đã được thực hiện trước khi hợp đồng tín dụng, thủ tục thế chấp tài sản được hoàn thiện, hợp thức.
Để hợp thức hồ sơ, rút được tiền tại Ngân hàng SCB, bà Lan và các đồng phạm đã dùng nhiều tài sản chưa đủ điều kiện pháp lý, nâng khống giá để đưa vào làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay.
Khi cần rút các tài sản có pháp lý, có giá trị để bán hoặc sử dụng cho các mục đích khác, bà Lan chỉ đạo các đồng phạm thực hiện việc hoán đổi, rút các tài sản đảm bảo có giá trị ra khỏi Ngân hàng SCB, thay thế bằng các tài sản khác, hầu hết có giá trị thấp hơn tài sản đã rút ra.
Để dễ dàng hoán đổi tài sản bảo đảm, bà Lan và các đồng phạm tại SCB không thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định hoặc biến tướng thành “quyền tài sản” để tránh việc đăng ký giao dịch bảo đảm.
Ngoài ra, bà Lan còn chỉ đạo thuộc cấp câu kết với công ty thẩm định giá để cấp chứng thư nâng khống giá trị tài sản bảo đảm, đưa vào hồ sơ vay vốn; đưa tài sản đảm bảo không đủ pháp lý; không đăng ký giao dịch bảo đảm; rút tài sản có giá trị lớn hoán đổi bằng tài sản có giá trị thấp hơn.
Để che giấu dòng tiền, tránh sự phát hiện, xử lý của các cơ quan chức năng, bà Lan chỉ đạo các thuộc cấp ở Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, người thuộc Ngân hàng SCB lập phương án thực hiện việc “giải quỹ” bằng việc lập hợp đồng hứa chuyển nhượng cổ phần khống để có thể sử dụng tiền mà không bị các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý, đồng thời né tránh việc phải nộp thuế.
Bằng những thủ đoạn này, bà Trương Mỹ Lan đã gây thiệt hại cho Ngân hàng SCB gần 200 nghìn tỷ đồng.